Một hôm, cô giáo sư toán bước ra chợ, ngắm nhìn rổ ổi xanh lòng đào. Cô chợt nghĩ:
“Giá mà có một công thức chính xác, như phương trình bậc hai hay định lý Pitago, để đo được độ ngọt, độ thanh khiết của trái ổi này, thì ta sẽ chẳng cần cắn thử, khỏi mất công nếm mùi vị bất ngờ.”
Nhưng rồi cô mỉm cười. Vì toán học dù có vi diệu đến đâu, vẫn chỉ đo được cái “vỏ ngoài” của hiện tượng: hình dáng, khối lượng, hàm lượng đường… Còn cái hương vị bồng bềnh trong khoảnh khắc cắn vào trái ổi – cái đó thì không phương trình nào tính được.
Toán học có công thức chính xác, nhưng đời người có công thức thiền quán.
Căn bản là quán niệm hơi thở: thở vào biết mình đang ăn ổi, thở ra biết ổi đang tan thành vị ngọt trong lòng.
Căn bản là quán tâm: thấy cảm xúc vui khi vị ổi ngấm vào lưỡi, nhưng cũng thấy được nỗi buồn cũ đang len về trong tâm.
Và căn bản nhất là quán vô thường: trái ổi rồi cũng hết, cảm xúc rồi cũng qua, nhưng sự tỉnh thức mới là hương vị trường tồn.
Cô giáo sư toán cuối cùng hiểu:
Công thức nào tính được “ngọt” thì chỉ là giả định, còn chỉ có chánh niệm mới cho ta nếm trọn sự thật.
Cho nên, nếu hỏi:
“Công thức nào đo được cảm xúc bồng bềnh của đời người?”
Thì câu trả lời dí dỏm nhưng huyền bí là:
CẢM XÚC = (HIỆN TẠI \times CHÁNH NIỆM) + (VÔ THƯỜNG \div CHẤP TRƯỚC)
Nhưng rồi, chính cô giáo sư toán cũng phải bật cười:
“Dù viết bao nhiêu công thức, cái ngọt vẫn chỉ ngọt khi ta nếm.
Dù giải bao nhiêu bài toán, nỗi cô đơn vẫn chỉ tan khi ta tỉnh thức.”
Vậy, bài học của trái ổi xanh lòng đào là:
Toán học cho ta logic.
Thiền học cho ta tự do.
Và trong khoảnh khắc nếm vị ổi, ta có thể chợt giác ngộ: giải thoát đâu xa, nó chính là một miếng ổi giòn tan trong chánh niệm.



