Bài giảng
Hôm nay, Thầy nói về Mật chú số 01 Mu A Mu Sa, năng lượng vi diệu đại Từ đại Bi của mười phương Chư Phật ban rải xuống muôn loài chúng sanh có đầy đủ diệu lực chuyển hóa được chư vong linh chưa siêu thoát còn vất vưởng đâu đây nơi nhà ở, nơi bên đường hoặc ngay cả gần gũi thân cận với chúng ta. Trong dân gian thường nói ma nhập, vong nhập, nói đúng hơn là những năng lượng bất tịnh của chư vong linh chưa siêu thoát được bởi một lý do gì đó mà nghiệp của họ hoặc vì những lầm chấp trong cuộc đời khi còn sống, thân xác này khi trở về với lòng đất thì vong của họ, linh hồn của họ chấp trược vào đó, không siêu thoát được. Và những ai trong chúng ta hoặc những nơi nào đó có nghiệp thức tương ưng, các vong linh đó thường trú ngụ hoặc gần gũi tác động vào để cho mỗi người hoặc nơi đó cảm được rằng họ đang hiện diện ở nơi đó.
Mật chú Mu A Mu Sa giúp cho chúng ta tăng trưởng năng lượng đại Từ đại Bi. Các con nhớ, giữa Ma lực trong cuộc đời và Phật lực, hai cảnh giới này hoàn toàn khác nhau. Ma lực là lực của chấp trược, lầm mê trong Vô Minh. Phật lực là đại lực Từ Bi của những Bậc Giác Ngộ đã liễu thông Vạn Pháp Vô Thường và đã thoát khổ. Trong Thế giới ta đang sống, ở đây đó trong cuộc đời, có thể ở những chỗ này hay ở nhà này hoặc là ở chỗ kia, có thể con người này, con người kia do nghiệp báo tương ưng với nhau trong nhiều kiếp mà trong hiện kiếp này, mà người đó hoặc nơi đó có những nghiệp như vậy tương tác và các chư vong linh hoặc nghiệp của vong linh đó vẫn tồn tại lôi cuốn hoặc ảnh hưởng đến mỗi một con người chúng ta. Nếu như có Ma lực tức là nghiệp lực của trầm mê, của các vong linh tương ưng với ta thì ở trong con người mình cũng có Phật Tánh và chính Phật Tánh của mình cũng tương ưng với Phật lực của các Bậc Giác Ngộ. Khác biệt là mỗi người chúng ta có trải lòng ra, có mở tâm ra để Phật Tánh của mình nó phát huy được diệu lực, điều mà Đức Phật gọi là phương tiện vi diệu để gắn kết với Chư Phật, để chúng ta được năng lượng Từ Bi của Chư Phật tràn vào hay không, gọi tắt hơn là được Phật lực tương tác với cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta có Ma lực tương tác bởi nghiệp lực thì chúng ta cũng có Phật lực tương tác bởi Phật Tánh của chúng ta. Sự khác biệt là mỗi người chúng ta lựa chọn như thế nào. Đó là quyền tự do quyết định của mỗi một con người.
Nếu chúng ta chọn lựa sự tương tác với Ma lực, với những lực bất thiện, mà nghiệp Ác của ta đã tạo ra với họ thì tức khắc Ma lực đó sẽ tới với ta, xâm chiếm cơ thể của ta, sẽ đi vào trong thân, tâm của ta và làm cho ta loạn tâm hoặc làm cho thân của ta bị bệnh hoạn.
Nhưng nếu chúng ta lựa chọn một con đường tốt đẹp hơn theo như Đức Thế Tôn đã truyền dạy là để giải thoát khỏi đau khổ thì chúng ta mang Tâm Phật của mình gắn kết với Phật lực. Tức là năng lượng đại Từ đại Bi của Chư Phật thì ngay lúc chúng ta trì Mật chú Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn, Mu A Mu Sa là chúng ta đã lựa chọn một con đường vi diệu, một con đường giải thoát để mang Tâm Phật gắn kết với Phật lực của Chư Phật. Ngay lúc đó tự thể của thân, tự thể của tâm ta sẽ tràn đầy năng lượng của Chư Phật. Và năng lượng Từ Bi của Chư Phật sẽ thay đổi tất cả cách sống, cách suy nghĩ, khai mở Tâm – Trí của ta, giúp ta hiểu biết nhiều hơn và ngộ được cuộc sống này có 02 sự lựa chọn: một là đi sâu vào con đường trầm mê của Ma lực, hai là lựa chọn một con đường thoát tục, thoát khỏi trầm mê của Chư Phật. Và dĩ nhiên khi đủ trí tuệ, đủ suy nghĩ, đủ sự lãnh hội rằng cái nào là tốt, cái nào là xấu, Ma lực hay là Phật lực thì ta sẽ có đủ trí tuệ để chọn lựa con đường gắn kết với Phật lực, tức là năng lượng đại Từ đại Bi của Chư Phật.
Ma lực cũng là một loại tha lực nhưng là tha lực của năng lượng bất tịnh truyền vào trong chúng ta. Nếu như ta chọn lựa Ma lực đó thì năng lượng bất tịnh sẽ đến với chúng ta. Còn nếu như chúng ta chọn lựa Phật lực là năng lượng thanh tịnh tuyệt đối của những Bậc Giác Ngộ thì năng lượng đại Từ đại Bi của Chư Phật sẽ vào trong thân, tâm của chúng ta.
Do đó khi các con, các Phật tử và các bạn tu tập Thất Bảo Huyền Môn chúng ta trì Mật chú Mu A Mu Sa nguyện xin Chư Phật mười phương ban rải năng lượng đại Từ đại Bi tới muôn loài chúng sanh và chúng ta cũng còn nghĩ tới các chư vong linh, hương linh Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà, cha mẹ, những người thân thuộc, những vong linh mồ côi không có ai còn tưởng nhớ tới, chúng ta hồi hướng năng lượng Từ Bi của Chư Phật. Phật lực của các Bậc Giác Ngộ đó sẽ giúp cho các chư vong linh này, chư hương linh này liễu ngộ được cảnh trần này là đau khổ và họ nhìn ra con đường giải thoát, họ sẽ đi theo ánh Từ Bi của Chư Phật mà tái sanh vào cảnh giới Thiện do Thiện nghiệp họ đã tạo ra. Như vậy, họ sẽ không vương vấn và họ ra đi dưới một hình thức nào đó thì khi ta trì Mật chú Mu A Mu Sa, ta đã siêu độ cho những chư hương linh đó. Nếu ta phát nguyện cho họ và ta xin Chư Phật ban rải năng lượng Từ Bi Phật lực của các Ngài tới vong linh đó, tới nơi có vong linh đang ở, tới với con người có vong linh đang gá vào, tới những con người có năng lượng bất tịnh của các vong linh vì một yếu tố nhân duyên tiền kiếp mà có sự tương tác thì tức khắc nơi đó vong linh sẽ siêu thoát, tự tức khắc mà con người vong linh gá vô thì vong linh đó nhất định sẽ siêu thoát. Tức khắc những ai có phần tương tác với những năng lượng bất tịnh của các vong linh liền được thanh tẩy và sạch sẽ thân, tâm và thân xác của họ sẽ khỏe mạnh, an vui hơn.
Nói thật là rõ để mỗi người hiểu được, tức là màu nhiệm của Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn, Mật chú Mu A Mu Sa có diệu lực để chuyển hóa những năng lượng bất tịnh của các vong linh chưa giải thoát mà do nhân duyên nào đó trong tiền kiếp hoặc hiện kiếp có sự gắn kết với ta, có thể gắn kết với môi trường, hoàn cảnh, với không gian, thời gian, với con người, giữa ta với ta, giữa ta và người, thì Mật chú này có năng lực đặc biệt rất Chân Thiện, rất Từ Bi, rất Thiện hảo, rất là mạnh bởi Trí Tuệ liễu ngộ của Phật mà những năng lượng bất tịnh đó, mà các vong linh đó liền tức khắc hiểu được cuộc đời và họ sẵn sàng ra đi không còn vương vấn trong cảnh trần. Do đó, khi ta hít vào thở ra, ta hồi hướng năng lượng này cho vong linh, các vong linh gá vào cuộc đời của mỗi người hoặc là gá vào nơi chỗ ở này, nơi chỗ ở khác, truyền năng lượng trực tiếp hoặc gián tiếp đều được siêu thoát.
Nói theo một cách khác, dễ hiểu hơn mà trong dân gian thường sử dụng một ngôn từ gọi là bắt ma hoặc cầu siêu hoặc là độ vong linh. Chắc hẳn, mỗi người chúng ta đã từng nghe chuyện ma nhập, vong nhập hoặc chính mắt ta hoặc ai đó đã chứng kiến cảnh vong nhập hoặc ma nhập mà hầu hết khi ta nghe những nghi thức cầu siêu, chẩn tế là để siêu độ các vong đó siêu thoát khi các vong đó còn quá nhiều nghiệp hoặc vì một điều gì chấp trược, họ bám víu điều gì ở trần gian không chịu siêu thoát. Có thể họ chưa nghĩ được lời của Đức Phật, chưa đủ phước duyên để lãnh hội những điều Đức Phật khai thị nên họ còn dính mắc hoặc chúng ta có thể đã chứng kiến người thân, bạn bè, những người gần gũi hoặc ngay cả chúng ta cũng có thể bị vong nhập. Vong nhập có nhiều hình thức, hầu hết là qua năng lượng tương tác với thân hoặc với tâm. Năng lượng đó làm xáo trộn đời sống của ta, làm thân của ta sinh ra bệnh tật, làm tâm tăng lên những ảo tưởng, ảo giác rồi ăn nói không phù hợp, tăng trưởng những nghiệp Ác. Thế nên, khi chúng ta tập luyện Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn, Mật chú Mu A Mu Sa này, chúng ta tinh tấn rải năng lượng Từ Bi mà ta đón nhận được của Chư Phật hồi hướng cho các chư vị đó thì nếu các con đến một nơi nào người ta gọi nơi đó có ma, có vong hoặc ai đó có vong nhập, ma nhập hoặc ai đó có năng lượng của vong truyền vào hoặc nhập vào thì với diệu lực của Mật chú Mu A Mu Sa này, nơi có vong, có ma nhập các con hồi hướng tới thì tức khắc ngay nơi đó, Ma lực của vong đó sẽ được chuyển hóa bởi năng lượng Từ Bi của Chư Phật, họ sẽ hiểu được những lời khai thị của Phật để họ phát nguyện vãng sanh, phát nguyện tái sanh về cảnh mà do Thiện nghiệp họ đã tạo ra. Cho nên, họ sẽ đi ngay không còn ở đó.
Nếu như người nào do một nhân duyên của nghiệp tương ưng nhiều đời mà nay vong đó gá vào, nhập vào thân của người đó, người đó nếu làm chủ được tâm, hít thở thật đều, trì Mật chú Mu A Mu Sa xin Chư Phật mười phương rải năng lượng Từ Bi cảm hóa vào năng lượng bất tịnh của các vong đó thì tức khắc vong mà gá vào thân xác của người đó sẽ được khai thị, hiểu được và từ bỏ những chấp trược đi theo Thiện nghiệp của họ tác tạo được trong nhiều kiếp mà tái sanh vào cảnh lành. Và nếu như năng lượng bất tịnh chuyển vào trong thân hoặc tâm của ai đó mà người đó vẫn làm chủ được thì người đó cũng chỉ cần niệm Mật chú Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn, Mu A Mu Sa hồi hướng công đức thì nhất định năng lượng đó sẽ được chuyển hóa và vong linh đó siêu thăng về cảnh lành.
Đó là nói về vong đang ở một nơi mà chúng ta hồi hướng, đó là nói về vong mà nó đang gá vào trong thân xác của ta qua dạng gá vào thân, vào tâm bằng năng lượng, hình ảnh hay ánh sáng. Tất cả các dạng như vậy đều được chuyển hóa bằng năng lượng đó, nếu như người đó vẫn có thể làm chủ được hơi thở, làm chủ được trí tuệ, hít thở và niệm Mật chú Mu A Mu Sa thì người đó sẽ tự mình chuyển hóa được nó ngay. Còn nếu như ai đó họ mất đi sự thăng bằng của thân, tâm, họ không làm chủ được thì một trong các con, một trong những hành giả đã từng tu Pháp môn này, nếu các con lập công đức tin sâu vào Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng và Nhân Quả, có đức tin vào các Thiện Pháp, tu tập Mật chú miên mật, thì các con sẽ có một lực để hồi hướng công đức giúp đỡ cho những người bị vong nhập, giúp đỡ cho những nơi vong ở, giúp đỡ cho người bị những năng lượng của vong, năng lượng bất tịnh đó xâm chiếm.
Nói một cách khác, tức là chúng ta có được phước báu làm sứ giả của sự an lạc. Nếu như nơi nào có vong ở, ta có thể hồi hướng để cho vong được siêu thoát, người nào có vong gá vào, nếu ta tinh tấn tu học, ta có thể làm được điều là hồi hướng công đức cho vong đó siêu thăng mà không còn gá vào con người đó nữa. Và nếu như năng lượng nào đó còn gá vào người đó, ta cũng là sứ giả của sự bình an, sứ giả để trao truyền năng lượng Từ Bi của Chư Phật để hồi hướng cho vong đó được siêu thoát. Do vậy, khi ta tu tập Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn trì Mật chú Mu A Mu Sa, ta có khả năng làm được điều đó. Đó là nói theo ngôn ngữ của đời thường, không phải ta trở thành Thầy Pháp bắt ma, bắt vong mà chúng ta trở thành con người có Tâm Thiện, là sứ giả, là nhịp cầu, là con người biết hiến thân, hiến cuộc đời này tu tập để đón nhận năng lượng Từ Bi của Chư Phật vào trong thân, vào trong tâm để gửi tới những chư vị vong linh vì trầm mê, vì nghiệp báo, vì một sự hận thù nào trong cuộc đời họ chưa thể thoát được. Chúng ta hồi hướng đến họ những năng lượng vi diệu Từ Bi của Phật và rải Tâm Từ của ta tới với họ. Họ liền tức khắc được khai thị và siêu thoát.
Đây không phải là Pháp môn để cầu siêu và siêu độ nhưng là một nhịp cầu để gửi tới những năng lượng thật thanh tịnh Từ Bi của Phật cho những vong linh còn đang sống trong miền mê trược. Đây là một điều thật là rõ ràng mà một số Phật tử và một số các bạn đã chứng kiến khi đệ tử của Thầy là Thầy Bảo Tịnh Đức đã từng làm trong mỗi một ngày.
Hôm nay, Thầy muốn các bạn, Thầy muốn các con phải lĩnh hội được điều khai thị này, siêng năng tu tập để đón nhận được năng lượng đó, để tự giải tất cả những miền u mê của ta, của các chư vong linh còn đang tương tác với ta, với người vì một nhân duyên trong dòng nghiệp thức của quá khứ. Nói cho dễ hiểu thì mọi người phải nên nhớ rằng vong linh cũng sẽ được cầu siêu thoát và chúng ta chỉ có thể độ được bằng năng lượng vi diệu Từ Bi mà thôi.
“Oán với oán hà thời oán.” Vong đã oán ta mà vong gá vào ta, vong đã oán mà còn truyền năng lượng bất tịnh vào trong người. Chúng ta không thể lấy oán hận mà diệt trừ oán hận, ta phải lấy tình yêu thương, phải lấy năng lượng đại Từ đại Bi của Chư Phật mười phương để tương tác thì năng lượng Từ Bi với năng lượng oán này sẽ được dung thoa và các con nên nhớ rằng Tà không thể thắng Chánh, Ma không thể thắng Phật cho nên Ma lực của vong linh do lầm chấp không thể thắng được Phật lực Từ Bi. Cho nên, chữ đại Từ đại Bi của mười phương Chư Phật chuyển đến tâm của ta qua dạng năng lượng Thiện đó sẽ chuyển hóa Ma lực bằng hình thức năng lượng tác động vào ta qua dạng bất tịnh.
Nay các bạn được khai thị, hãy tinh tấn tu học để mọi người chúng ta thoát ra và mỗi người chúng ta có thể giúp cho kẻ khác thoát ra khỏi sự bất tịnh do năng lượng tương tác bởi các vong hay các linh hồn chưa siêu thoát. Ta làm nhiệm vụ này, ta hồi hướng đó là một ý nghĩa lớn, bởi ta biết ban rải Tâm Từ của ta khi ta lãnh được từ Chư Phật. Bởi những ai biết trao đi thì sẽ được đón nhận nhiều hơn, trao ra là đón về, trao ra là được đón nhận trở lại. Hãy trao đi tất cả những năng lượng Thiện mọi người đã lãnh nhận được của Pháp tu này.
Như vậy, Mật chú Mu A Mu Sa và sự tu tập này của chúng ta có khả năng tăng trưởng năng lượng Từ Bi, năng lượng Thiện của Chư Phật. Tăng trưởng Phật lực vào cuộc đời của chúng ta để mỗi người chúng ta có được khả năng Từ Bi như Chư Phật, sống với Tâm Phật để dùng năng lượng này chuyển hóa những Ma lực, những năng lượng bất tịnh của các chư vong linh vì một lý do của nghiệp thức nào đó còn tương tác trong cuộc đời qua nhiều hình thức. Có thể tương tác từ nơi ăn chốn ở, có thể tương tác qua thân xác của người này, người kia, có thể tương tác qua dạng năng lượng để tác động vào thân, tâm qua hình ảnh, qua suy nghĩ, qua tư tưởng gây cho thân bị phiền não, bệnh hoạn, gây cho tâm nhiều những tư tưởng bất thiện làm rối loạn đời sống. Ta hãy cố gắng tu tập để dùng năng lượng này thanh tẩy, để dùng năng lượng Từ Bi của Chư Phật giúp cho ta và người ở trong môi trường sống được thanh tịnh, được hài hòa và được tăng trưởng theo chiều hướng Thiện, tốt đẹp hơn. Đó là một công dụng mới mà ta nghe được ngày hôm nay.
Vấn đáp
1. Tổng hợp câu hỏi
1. Mình hồi hướng công đức cho Cửu Huyền Thất Tổ thì nếu như ông bà, cha mẹ đã tái sanh một kiếp khác thì sự hồi hướng đó mang ý nghĩa như thế nào?
2. Con niệm Mu A Mu Sa thì con cũng lấy hơi vào nhưng khi Thầy niệm thì con niệm không kịp, như vậy là con cần hít vừa hay hít sâu? Sau 03 bữa thực tập người con lắc lư mạnh, cái đó có phải gọi là nhân điện không? Mình nhận được năng lượng khi mình niệm Mu A Mu Sa đúng không?
3. Người vừa mất mà mình vừa cúng cơm đến 49 ngày là họ đi về nơi tái sinh của họ rồi thì sau 49 ngày, bàn thờ mình vẫn để đó hay là đem lên với ông bà luôn ạ?
4. Mỗi ngày Thầy dạy một đề mục khác nhau vậy khi ngồi thiền thì mình sẽ nguyện như thế nào?
2. Giải đáp
Ông bà của chúng ta hay tất cả chúng ta khi chết đi đều theo nghiệp của mình tạo mà tái sanh. Tất cả mọi người đều tái sanh ngay lập tức hoặc tái sanh chậm hơn. Đó là một cảnh giới phải tái sanh, tái sanh ngay và tái sanh chậm. Nhưng có những vong không thể tái sanh được.
Nếu như ông bà, Cửu Huyền Thất Tổ đã tái sanh về cảnh giới của Lục Đạo rồi, ví dụ tái sanh xuống Địa Ngục, tái sanh làm Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Người hay tái sanh thành Chư Thiên hoặc Atula, bất cứ một cảnh giới nào đi nữa, chúng ta hồi hướng với dạng năng lượng Từ Bi này thì ở bất cứ một cảnh nào, ông bà Cửu Huyền Thất Tổ của ta đều đón nhận được.
Ta không cúng cơm, nếu ta cúng cơm thì Chư Thiên không ăn được, những người dưới Địa Ngục không ăn được, ta hồi hướng năng lượng Từ Bi do Mật chú Mu A Mu Sa, Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn. Đó là một dạng năng lượng vi tế, vi diệu của Chư Phật nên trong 06 cảnh Luân Hồi đều đón nhận được hết. Không cần biết ông bà, Cửu Huyền Thất Tổ của ta sinh vào cảnh giới nào thì năng lượng này khi ta hồi hướng ông bà đều nhận được hết. Còn nếu như các vong linh vì một nghiệp Ác hoặc vì một cái gì chấp trược, không chấp nhận ra đi để tái sanh, họ còn tồn tại trong ngôi nhà, trú trong chỗ này, chỗ kia hoặc gá vào trong thân xác của những người có nhiều tương tác do Ác nghiệp của đời trước hoặc do những nghiệp tương ưng qua dạng năng lượng gá vào, gá vào qua âm thanh, qua sắc tướng, qua thân xác, qua năng lượng, xâm chiếm tinh thần hoặc thể xác, thì chúng ta hồi hướng cho họ. Dạng năng lượng này đi xuyên suốt vào tâm của họ, họ sẽ lĩnh hội được và sẽ sẵn sàng ra đi để tái sanh.
Cho nên, để trả lời câu hỏi đó, ví dụ như con nhớ ông Đại Hiếu Mục Kiền Liên khi cúng cơm cho mẹ là bà Thanh Đề ở dưới Địa Ngục. Ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, nhưng lúc đó không hiểu sao Ngài lại đi cúng cơm cho nên khi Ngài cúng cơm như vậy, cơm không thể dâng xuống cho bà Thanh Đề dưới Địa Ngục, còn nếu như vào Ngạ Quỷ thì may ra, nếu ở gần họ có thể hưởng được hương khói chứ họ cũng không ăn được. Cho nên, vấn đề cúng kiến ở đời thì các vong linh Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà cũng không thể hưởng được.
Chữ “cúng” là nói theo văn tự của hiện tại, cúng tức là dâng cúng. Nếu chúng ta chuyển hóa sự dâng cúng, ngôn ngữ dâng cúng hoặc cúng thành một ngôn ngữ nó kính trọng hơn, nó tốt đẹp hơn, đúng nghĩa hơn, tức là “hồi hướng”. Nếu ta hồi hướng bằng năng lượng Từ Bi của Phật thì dạng năng lượng vi diệu này không cần biết ở cảnh giới nào thì ông bà, Cửu Huyền Thất Tổ hoặc chư vong linh cũng đều đón nhận một cách trực tiếp và nhanh, không có một cái gì có thể cản trở được.
Do đó, Pháp môn Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn, Mật chú Mu A Mu Sa là một Pháp cúng dường Pháp vi diệu. Vì thế, khi các con tu tập và hồi hướng cúng dường thì tất cả Cửu Huyền Thất Tổ nhiều đời, những người yêu thương ta nhiều đời đã quá vãng hoặc chư vong linh đều có thể đón nhận được và làm tư lương đi trên con đường tu tập Kiến Tánh, chuyển hóa mê, đi về miền Giác Ngộ.
Phật nói: “Tâm làm chủ các pháp.” Khi chúng ta lấy tâm hướng tới Mu A Mu Sa là hướng tới Chư Phật, đón nhận năng lượng đại Từ đại Bi của Chư Phật, tâm ta làm chủ hướng Thượng, hướng tới Phật, nhà Phật gọi là Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng. Chúng ta niệm Mật chú Mu A Mu Sa là chúng ta Niệm Phật – Pháp – Tăng, là Niệm Từ, Niệm Bi, niệm năng lượng Từ Bi của Phật – Pháp – Tăng chuyển vào trong thân của chúng ta bởi tâm của chúng ta làm chủ hơi thở, tâm của chúng ta làm chủ Mật chú Niệm Phật – Pháp – Tăng, năng lượng đại Từ đại Bi này.
Tất nhiên, những cảm nhận qua thân rung động nó chuyển, nó xoay đều là do tâm làm chủ mà năng lượng Từ Bi, năng lượng của Phật – Pháp – Tăng truyền vào thân của chúng ta. Cho nên trả lời khi Cô nhận được năng lượng vào thân thì năng lượng đó chắc chắn là của tâm làm chủ do Niệm Từ Bi, Niệm Phật – Pháp – Tăng, đó là năng lượng Thiện, năng lượng vi diệu.
Còn nếu như khi Thầy hít vào thở ra mà hơi dài mà Cô theo không kịp thì không sao. Miễn là tâm của Cô cứ hít thở theo khả năng thân xác của Cô có thể thở được, nhưng vẫn lắng nghe lời Mật chú mà Thầy niệm và sẵn sàng đón nhận, giao thoa với năng lượng đại Từ của Phật qua Thầy, qua bản thân của mình để dung thông với nó cho nên không cần phải niệm dài, chỉ cần niệm đúng với khả năng cơ thể mình cho phép. Thân xác của Cô trong lúc này cũng đón nhận được nhiều năng lượng phải không Cô?
Phật tử: Dạ thưa Thầy, con đón nhận được năng lượng vượt ngoài sự mong muốn của con. Con cũng lớn tuổi và cũng hướng về Phật nhiều năm rồi, nhưng sau khi nghe sự hướng dẫn của Thầy và trì niệm Mu A Mu Sa con đón được năng lượng rất là nhanh. Cũng như Thầy giải thích cho con là tâm của con càng ngày càng được nâng cao và ăn sâu vào trong Tâm – Trí để con tiếp nhận lời Thầy dạy.
Thầy: Dạ thưa Cô, đó là nhờ công đức Cô đã làm từ thiện mấy mươi năm qua, từ thuở nào rồi. Cô đã có Tâm Thiện do ông, bà, cha, mẹ truyền lại, do những hành động được giáo dưỡng từ thuở nhỏ. Cô đã hành Thiện tích được công đức và phước đức đó cho nên ngày nay khi Cô tu tập, Cô có sự phát triển thật là nhanh.
Có một câu nói rằng không phải anh đi trước mà anh tới trước, cũng không phải là chúng ta đi sau mà chúng ta tới sau. Tới trước và tới sau đều do công hạnh tu tập và nhân duyên do công đức và phước đức mà chúng ta tạo ra. Có những người tu từ hồi trẻ mà già cũng không Giác Ngộ được, có những người khi gần chết rồi, hơi thở cuối cùng mới ngộ ra tin sâu vào Tam Bảo và tu. Ngay trong giây phút thở ra không thể thở vào nữa được khai thị, liễu thông và họ sẽ siêu thăng về cảnh lành.
Cho nên, ở đây không tính tới cảnh ai tu trước, ai tu sau, kẻ già hay người trẻ, kẻ khỏe hay yếu mà là nhân duyên. Nhân duyên của Cô đã tới, Cô đã sẵn sàng, nhân duyên khế hợp với công đức và phước đức nhiều đời làm từ thiện của Cô, do sự nối truyền từ ông, bà, cha, mẹ, do ảnh hưởng của gia đình sống Thiện như vậy nên dù rằng Cô đã lớn tuổi, thân xác của Cô đã yếu hơn mọi người, không hẳn là Cô sẽ tới sau, Cô có thể sẽ tới trước tất cả những người trai trẻ khỏe mạnh, những người đã tu lâu hơn Cô. Vì vậy, không nên so sánh già trẻ, yếu khỏe mà chỉ cần nhẹ nhàng thân, tâm khi tới thời nhân duyên trổ quả chúng ta tinh tấn tu tập.
Vấn đề lập bàn thờ, vấn đề cúng cơm, vấn đề con số 49 ngày đó gọi là Tướng Pháp. Còn vấn đề tu tập Thiện Pháp, đón nhận năng lượng Từ Bi của Phật để cúng dường, để hồi hướng, đó gọi là Tâm Pháp.
Trong Phật Pháp có Tướng Pháp và Tâm Pháp. Tâm Pháp là do Đức Phật truyền. Còn Tướng Pháp là do Tổ, do Thầy, do các vị đời xưa chế tác ra để an tâm cho những người còn đang sống như có một việc gì cụ thể rõ ràng để chúng ta làm như: bàn thờ có ảnh, có tên, có tuổi, có cơm, có nước, có trà để dâng lên. Để người còn sống nhìn vào đó mà an tâm “À! Ta có cúng cơm cho ông bà, cha mẹ. Ta có lập bàn thờ, có di ảnh.”
Còn phần mà Đức Phật dạy quan trọng nhất là Tâm Pháp. Bây giờ thì nói về Tâm Pháp, quan trọng là các con phải tin sâu vào Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng, tin thật là sâu vào Nhân Quả, quả Ác và quả Thiện, giữ Ngũ Giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sử dụng và uống các chất say và hành Pháp Thiện. Rồi từ đó có nhân duyên với tất cả Pháp môn Phật đã dạy.
Đặc biệt, nếu con có nhân duyên với Pháp môn Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn, con tu tập và trì chú Mu A Mu Sa hồi hướng thì ông bà, cha mẹ, Cửu Huyền Thất Tổ hoặc các chư vong linh đã chết sẽ lãnh nhận được năng lượng Từ Bi đó và siêu thoát chứ không cần phải qua chén cơm.
Chén cơm của Ngài Mục Kiền Liên cúng cho bà Thanh Đề, bà đâu có nhận được, khi bà đụng vô thì nó hóa thành cát, thành lửa. Cho nên cơm, nước, trái cây, bàn thờ đều không quan trọng bởi vì Phật không độ bàn thờ, không độ hình treo ở trên bàn thờ, Phật không độ trái cây, mà Phật độ linh, Phật độ vong, cho thần thức đó.
Thế nên, phần Tướng Pháp này nếu con có đủ điều kiện mua trái cây, dâng cơm, lập bàn thờ di ảnh thì đó cũng là một phần phong tục tốt, để hướng tâm mình về người đã mất, để mang lòng thành khi chúng ta làm người có khả năng dâng cúng, điều đó về Tướng. Tướng xuất phát từ Tâm Thiện nghĩ về ông bà, Cửu Huyền Thất Tổ, cái Tướng này tốt, hoàn hảo.
Nhưng nếu các con không có điều kiện để lập bàn thờ, không có điều kiện để lập một cái ảnh, không có điều kiện để cúng cơm, những mâm cỗ cao thì không cần thiết. Cần thiết nhất là cúng bằng Tâm Pháp tu tập thực hành Thiền Mật Tông, Thất Bảo Huyền Môn tiếp nhận năng lượng và hồi hướng. Đó là những hoa trái những phẩm vật cao quý nhất cúng lên cho ông bà và cha mẹ.
Còn khi một cái vong mất, có những vong thật là Thiện, Chí Thiện thì họ tái sanh ngay vào cảnh lành, còn họ thật là Ác thì họ tái sanh ngay vào cảnh Ác. Còn họ ở giữa, không Thiện mấy cũng không Ác mấy thì họ tái sanh chậm hơn. Những vong mà vì họ không muốn ra đi, họ cưỡng lại vì một lý do nào đó nên gọi là những vong linh vất vưởng gá chỗ này, gá chỗ kia.
Do đó, nó có nhiều dạng như vậy cho nên các con cứ cúng cái này cúng cái kia, dâng hương, dâng hoa dâng quả đó chỉ là một phần phong tục tập quán theo Tướng Pháp. Nó cũng tốt, nó giúp ta có di ảnh của ông bà để con cháu đời sau nhìn vào ảnh đó mà nhớ tới ông bà, cha mẹ. Nhìn vào ngày giỗ đó để mà quy hướng về Phật – Pháp – Tăng, quy hướng về Tổ Tông, ông bà, cha mẹ của mình, nhìn vào cái bàn thờ để được nhẹ nhõm, nhớ về cái trí tuệ, cái công đức sinh thành, nhớ về Tổ Tiên của mình, gọi là cây có cội, nước có nguồn, điều đó rất là tốt, nếu có điều kiện các con nên làm. Tuy nhiên, đó không phải là điều kiện tái sanh, đó chỉ là phương tiện cho người còn sống, sống Thiện, sống nhớ về Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ đã sống, nhớ về những lời dạy của người xưa mà thôi. Cái quan trọng nhất là Tâm Pháp mà Đức Phật dạy, tức là những Pháp môn chúng ta tu để lập nên những công hạnh tạo ra phước đức, công đức để hồi hướng.
Câu 04. Mỗi ngày Thầy dạy một đề mục khác nhau, vậy khi ngồi thiền thì mình sẽ nguyện như thế nào?
Ví dụ như vầy: “Con nhìn trong nước, không biết nước có cái gì, nhưng mà nước mang đến sự sống cho muôn loài, muôn vật. Nước cho chúng ta nước uống, để tưới cây, nước để phát triển tất cả các sự sống chỗ nào cũng có nước, nơi nào có nước thì ở nơi đó có sự sống. Vậy thì công dụng của nước là gì? Là tái sanh, là khởi nguồn của muôn sự sống bởi vậy trong nước có sự sống. Trong nước có cây chuối, cây xoài, cây mít, trong nước có con người, con thú, trong nước có tất cả phải không? Tại vì nước mang lại sự sống cho muôn loài, loài nào, vật nào không có nước thì sẽ bị chết.”
Mật chú Mu A Mu Sa có nhiều diệu dụng chứ không phải là nó chỉ có một diệu dụng duy nhất. Mật chú Mu A Mu Sa là tiếp nhận năng lượng đại Từ đại Bi của Chư Phật, mà năng lượng này có diệu dụng làm sống lại tất cả. Như hôm nay có diệu dụng là chuyển hóa những lầm chấp của chư vong linh và độ cho vong được siêu thoát. Hôm qua, Thầy nói là độ về sức khỏe để chuyển hóa cái khổ của tâm và cái đau của thân thì hôm nay Thầy mở rộng để các con thấy được diệu dụng của Mu A Mu Sa này có nhiều mặt đa phương diện, đa phương tiện chứ không phải chỉ thấy một mục đích. Cho nên, những bài học hàng ngày như vầy để cho Thầy và các con có cơ hội ngồi cùng với nhau, chúng ta gắn kết cùng tâm dung thông với nhau, để thông Tuệ với năng lượng Từ Bi của Phật, đón nhận được năng lượng.
Trong các buổi học Thầy phân ra từng phần để các con có cơ hội hiểu được rằng nó có tác dụng A, B, C,… tức là nhiều phần và khi các con tập, các con không cần nghĩ tới những chi tiết đó, mà chỉ biết rằng Mu A Mu Sa có một công dụng diệu lực vi diệu đa phương tiện trong tất cả các sự việc ở cuộc đời, chữa lành tất cả các bệnh tật, chữa lành tất cả mọi thứ. Và chỉ có năng lượng đại Từ đại Bi của Chư Phật mới có thể chuyển hóa tất cả được.
Thực hành
Các con quy hướng về ba ngôi Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng.
Niệm 21 biến Mật chú Mu A Mu Sa để tiếp thu năng lượng đại Từ đại Bi, năng lượng siêu thế, Phật điển thanh tịnh từ mười phương Chư Phật vào thân xác và thân, tâm này.
Phát nguyện:
Chúng con nguyện mười phương Chư Phật ban rải năng lượng đại Từ đại Bi tới muôn loài chúng sanh và chư vị hương linh nương nhờ Phật lực thoát cảnh trầm mê, siêu thăng Phật quốc.
Trì chú:
Mu A Mu Sa. (21 biến)
Hồi hướng:
Chúng con nguyện hồi hướng công đức này cho Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà, cha mẹ, chư vị hương linh được siêu thăng cảnh Tịnh Độ.